Phục vụ 24/7
Kho lạnh là một trong những mắt xích quan trọng của chuỗi
cung ứng lạnh, là tên gọi để chỉ hệ thống có thể điều chỉnh, kiểm soát nhiệt độ
và độ ẩm nhằm kéo dài thời gian lưu kho cho một số mặt hàng sản phẩm nhất định.
Dựa theo mức nhiệt độ mà kho lạnh được chia làm 3 loại chính:
+ Kho mát: Nhiệt độ
trung bình từ 2 đến 4 độ C, dùng để bảo quản cho hoa và rau củ quả.
+ Kho đông lạnh: Nhiệt
độ trung bình từ -20 đến -16 độ C, dùng bảo quản các loại thịt.
+ Kho trữ đông lạnh
sâu: Nhiệt độ dao động từ -30 đến -28 độ C, dùng bảo quản cho các sản phẩm thủy
hải sản.
Nhu cầu sử dụng thực phẩm tươi sống và an toàn ngày càng mạnh
thì các yêu cầu về bảo quản chúng cũng ngày càng được nâng cao hơn. Để đảm bảo
được yêu cầu đó sẽ được giải quyết phần nào qua kho lạnh với những lợi ích vượt
trội như: Không chất bảo quản, tươi ngon bổ dưỡng, sử dụng quanh năm, an toàn thực
phẩm, tránh lãng phí, thuận tiện và linh hoạt, đảm bảo cung cấp ổn định.
Kho lạnh là một ngành chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam khoảng 20
năm gần đây và chúng vẫn đang trong quá trình phát triển và mở rộng. Kho lạnh
đầu tiên của Việt Nam được xây dựng vào năm 1996 dưới sự hợp tác liên doanh giữa
1 doanh nghiệp Nhật Bản là Konoike Transport với 3 doanh nghiệp của Việt Nam là
Vinatrans, Vinalink và Vinafreight. Tiếp tục phát triển kho lạnh thứ 2 được xây
dựng vào năm 1998 với công nghệ hiện đại nhất thời đó. Bước sang thế kỉ 21 với
sự hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam với thế giới khiến cho thị trường
kho lạnh Việt Nam trở nên hấp dẫn, thu hút các nhà cung cấp, lắp đặt kho lạnh
trong và ngoài nước.
Theo các báo cáo của StoxPlus, thì ở khu vực phía Nam là nơi
tập trung các nhà cung ứng kho lạnh lớn nhất do đây là nơi sản xuất nông sản lớn
nhất của Việt Nam, nhu cầu sử dụng kho lạnh để bảo quản sản phẩm là rất lớn.
Các nhà cung ứng kho lạnh được chia thành 4 nhóm chính: Nhóm các doanh nghiệp
trong nước, nhóm các công ty ngoại, nhóm các công ty kho vận và nhóm khác.
Dù dẫn đầu thị trường về công xuất thiết kế và lắp đặt kho lạnh
nhưng các công ty kho lạnh trong nước hầu hết chỉ có thiết kế đơn giản, lắp đặt
các trang thiết bị cơ bản, thậm chí một số kho lạnh không được lắp kệ để đặt sản
phẩm.
Trong khi đó với các công ty cung ứng kho lạnh nước ngoài dù không có nhiều thi phần nhưng họ sở hữu ngũ chuyên nghiệp và trang thiết bị hiện đại, nên đảm bảo được chất lượng cho lạnh luôn đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên đi cùng với đó sẽ là chi phí đầu tư ban đầu lắp đặt kho lạnh cũng sẽ lớn hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Năm 1998, thị trường kho lạnh Việt Nam đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của nhà cung ứng kho lạnh nước ngoài là SWIRE đầu tư vào thị trường Việt Nam với những lợi thể nổi bật so với các nhà cung ứng tại thời điểm đó là đội ngũ quản lý chuyên nghiệp cũng như trang thiết bị hiện đại tại thời điểm đó. Sự phát triển và mở cửa của kinh tế Việt Nam tiếp tục thu hút thêm rất nhiều các nhà cung ứng kho lạnh nổi tiếng thế giới như LOTTE Sea (2009) và Preferred Freezer Services (2010). Các nhà cung cấp nước ngoài chính là những người dẫn đầu thị trường trong chất lượng và quản lý với nhóm khác hàng đa dạng và những địa điểm vô cùng thuận lợi.
Theo các báo cáo của StoxPlus vào năm 2016 thì kho lạnh được
đánh giá là một trong những phân ngành dịch vụ vận tải nhiều tiềm năng nhất ở
Việt Nam – một đất nước với những thế mạnh là sản xuất nông sản, nông nghiệp chiếm
16% GDP cả nước. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều doanh nghiệp
tham gia vào ngành cung ứng kho lạnh nhưng cẫn chưa có doanh nghiệp nào nào đủ
lực để cung cấp được chuỗi dịch vụ cung ứng đầy đủ.
Hiện nay, kho lạnh tại Việt Nam được sử dụng chủ yếu trong bốn
lĩnh vực chính bao gồm thủy sản, thịt, rau quả và bán lẻ. Trong đó bán lẻ được
kì vọng sẽ là yếu tố chủ lực giúp nhu cầu sử dụng kho lạnh ở Việt Nam sẽ tăng
trưởng mạnh mẽ.
Hiện nay, tại thị trường Việt Nam, các tập đoàn bán lẻ đa quốc
gia đang có thâm nhập và mở rộng thị phần bán lẻ, Việt Nam được kỳ vọng sẽ có
khoảng 1200 – 1300 siêu thị, 180 trung tâm mua sắm và 157 cửa hàng bách hóa vào
năm 2020. Do đó, kho lạnh cũng sẽ hướng đến sự phát triển về số lượng và sức chứa
nhằm có thể đáp ứng được nhu cầu đến từ sự phát triển vượt bậc của ngành bán lẻ.
Sự phát triển của ngành bán lẻ thương mại, chuỗi dịch vụ thực phẩm, kéo theo sự
phát triển nhu cầu vận chuyển hàng lạnh bằng xe tải đông lạnh với mức tăng trưởng
khả quan.
Để có thể nắm bắt được những cơ hội đầy triển vọng trong ngành kho lạnh tại Việt Nam, theo StoxPlus, các doanh nghiệp hiện tại cũng
như những nhà đầu tư nước ngoài muốn thâm nhập vào thị trường cần phải xác định
được thị trường mục tiêu cũng như có được những kể hoạch bán hàng và marketing
thích hợp.
Dựa theo báo cáo của FiinGroup thì các doanh nghiệp trong
ngành cung ứng lạnh có tỷ suất sinh lời biên lợi nhuận gộp lên đến 24 %, biên lợi
nhuận ròng là 19%. Trong bao gồm nhánh kho lạnh có biện lợi nhuận ròng là 16%,
nhóm vận chuyển là 17%, trung bình của cả ngành đạt 11%.
Tốc độ phát triển của ngành kho lạnh Việt Nam và nhu cầu sử dụng thực phẩm tươi sống và an toàn có liên quan trực tiếp với nhau. Việc đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm xuyên suốt chuỗi cung ứng “từ trang trại đến bàn ăn” ngày càng trở nên quan trọng, chính yếu tố này góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực chuỗi cung ứng lạnh tích hợp. Tuy nhiên, việc kiểm soát nhiệt độ xuyên suốt toàn bộ chuỗi cung ứng lạnh đòi hỏi chi phí đầu tư cho chuỗi cung ứng lạnh lớn hơn nhiều so với đầu tư các chuỗi cung ứng thông thường.
Theo như Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam thì đến thời điểm hiện tại thì logistics và cung ứng lạnh
tại thị trường Việt Nam vẫn chỉ phát triển tự phát, với quy mô nhỏ lẻ nên thiếu
tính kết nối và đồng bộ giữa những điểm lưu trữ này.
Tuy chưa có nhiều nghiên cứu, kết luận chính thức nhưng theo
Tiến sĩ Thế Anh thì công nghệ bảo quản sau thu hoạch tại Việt Nam là rất yếu dẫn
đến tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch cao, lên đến 20-25%. Trường hợp nông dân tại
Mê Linh (Hà Nội) phải vứt bỏ hàng trăm tấn củ cải là một minh chứng mới cho sự
yếu kém, thiếu đầu tư trong phương tiện vận chuyển và đứt gãy trong chuỗi
logistics cung ứng lạnh. Sự đứt gãy trong logistics có thể xảy ra ở bất cứ khâu
nào, từ kho lạnh, vận chuyển lên xuống xe tải lạnh, cho đến chất lượng của
phương tiện vận chuyển lạnh.
Theo các báo cáo của Mỹ về logistics của Việt Nam thì đến
năm 2019 thì nhu cầu kho lạnh đã vượt so với nhu cầu do các doanh nghiệp bán lẻ
quy mô lơn mới chỉ phát triển trong vài năm gần đây. Tuy nhiên nếu với những định
hướng đầu tư lâu dài thì thị trường kho lạnh của Việt Nam vẫn rất tiềm năng.
Với một nước có khí hậu nhiệt đới như ở Việt Nam thì nông sản
thường đực trồng trọt và thu hoạch theo mùa vụ, dẫn đến lượng nông sản không đều
trong năm. Điều đó là nguyên nhân gây trở ngại cho việc đầu tư kho lạnh vì thời
gian sử dụng không được liên tục nên không tối ưu được chi phí đầu tư. Lại thiếu
sự tiếp cận với những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu
hầu hết phải tự đầu tư nên hiệu quả kinh tế rất thấp.
Việt Nam cần phát triển, hoàn thiện chuỗi logistics trong
cung ứng lạnh trong một thị trường ngày càng kết nối với thế giới. Là một nước
có quy mô sản xuất nhỏ với 13 triệu hộ nông dân, nếu khó áp dụng công nghệ bảo
quản mang tính tập trung, sẽ dẫn đến chi phí cao do sản phẩm phân tán. Thêm vào
đó, những đơn vị riêng lẻ tự đầu tư những công nghệ lưu kho lạnh rẻ tiền nhập
khẩu từ Trung Quốc. Do đó, vai trò của hợp tác xã được nhấn mạnh, là đầu mối
quy tụ các hộ gia đình sản xuất nhỏ lẻ.
Trong lúc các nước phát triển như Úc và Mỹ quan tâm đến thị
trường logistics cung ứng lạnh ở Việt Nam, thì các chiến lược quy hoạch ngành
logistics cung ứng lạnh và vùng cụ thể, cùng các đề xuất hợp tác công tư rõ
ràng sẽ là sự khích lệ lớn cho việc phát triển ngành này. Qua đó, giải quyết những
bài toán khó của ngành nông nghiệp và nâng cao chất lượng cuộc sống thị dân. Đó
là giải pháp “một mũi tên trúng nhiều đích”